Phụ nữ nên biết 7 nguyên nhân gây ung thư buồng trứng

Ung thư buồng trứng là một trong những căn bệnh ung thư phổ biến ở nữ giới, sau ung thư vú và ung thư cổ tử cung.

Biết các yếu tố nguy cơ có thể giúp phụ nữ phát hiện các triệu chứng ung thư buồng trứng dễ bị bỏ qua.

Theo Bệnh viện K Trung ương, ung thư buồng trứng là ung thư đường s.inh d.ục thường gặp ở nữ giới, đứng thứ hai sau ung thư cổ tử cung. Ước tính trên toàn thế giới, mỗi năm có khoảng 240.000 phụ nữ được chẩn đoán có khối u ác tính tại buồng trứng, gần 150.000 ca t.ử v.ong. Vì vậy, ung thư buồng trứng là một trong những ung thư nguy hiểm.

1. Tại sao ung thư buồng trứng lại nguy hiểm?

phu nu nen biet 7 nguyen nhan gay ung thu buong trung ba4 7150884

Hình ảnh ung thư buồng trứng.

Vấn đề là phụ nữ thường không nhận biết được các triệu chứng ung thư buồng trứng cho đến khi bệnh tiến triển và ung thư càng phát hiện muộn thì càng khó điều trị. Nếu và khi phụ nữ gặp các triệu chứng, những triệu chứng đó thường nhẹ và bao gồm đầy hơi, sưng hoặc chướng bụng và đi tiểu thường xuyên. Những triệu chứng này sẽ khiến nghĩ đến do tăng cân, hội chứng t.iền k.inh n.guyệt, căng thẳng, đau dạ dày, n.hiễm t.rùng đường tiết niệu hoặc hội chứng ruột kích thích… BS. Nguyễn Tuấn Anh, Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết: “Vì vậy, thông thường khi chẩn đoán, khoảng 2/3 số bệnh nhân ung thư buồng trứng đã lan ra ngoài vùng xương chậu”.

Hầu hết vẫn chưa hiểu đầy đủ chính xác nguyên nhân gây ung thư buồng trứng, điều quan trọng là phải biết các yếu tố nguy cơ ung thư buồng trứng phổ biến nhất. Hãy hết sức chú ý trong việc lắng nghe cơ thể mình và nên đi khám ngay lập tức khi thấy những nguy cơ sau:

1.1 Có đột biến gene di truyền

Có một số đột biến gene mà phụ nữ có thể thừa hưởng từ cha mẹ khi sinh làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng, chẳng hạn như hội chứng BRCA1, BRCA2 và Lynch. Ví dụ, khoảng 1% phụ nữ trong dân số nói chung sẽ mắc ung thư buồng trứng trong đời. Ngược lại, phụ nữ có đột biến BRCA1 có 44% nguy cơ, tỷ lệ những người có đột biến BRCA2 là 17% và phụ nữ mắc hội chứng Lynch có 6 đến 8%. Những đột biến này cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc các loại ung thư khác.

Ví dụ, BRCA1 cũng có liên quan đến ung thư vú; BRCA2 cũng liên quan đến khối u ác tính (ung thư da) cũng như ung thư vú, tuyến tụy và tuyến t.iền liệt; và Hội chứng Lynch cũng liên quan đến ung thư ruột kết và nội mạc tử cung.

Nếu bất kỳ bệnh ung thư nào di truyền trong gia đình, đặc biệt là nếu người thân thế hệ thứ nhất mắc bệnh này (cha mẹ, anh chị em hoặc con cái) được chẩn đoán ở độ t.uổi trẻ, hãy hỏi bác sĩ về việc gặp chuyên gia tư vấn di truyền, người có thể giúp tìm hiểu xem liệu xét nghiệm di truyền có phù hợp hay không.

Xét nghiệm di truyền có những ưu và nhược điểm, nhưng một lợi ích chính là nếu phát hiện ra mình có đột biến gene, đặc biệt là ở t.uổi trưởng thành trẻ, sẽ có cơ hội thực hiện các biện pháp chủ động giúp giảm nguy cơ phát triển ung thư trong tương lai.

1.2 T.iền sử gia đình mắc bệnh ung thư buồng trứng

Ngay cả khi không có đột biến gene di truyền, nếu có từ hai người thân trở lên mắc bệnh ung thư buồng trứng thì sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

1.3 T.uổi tác

T.uổi tác là một trong những yếu tố nguy cơ phổ biến nhất đối với nhiều bệnh ung thư và một nửa số ca ung thư buồng trứng được chẩn đoán ở phụ nữ từ 63 t.uổi trở lên. Nghĩa là, có thể sống càng lâu thì tế bào càng phân chia nhiều và khả năng mắc bệnh hoặc đột biến gene càng lớn. Và những thứ này có thể tích lũy dần dần. TS.BSCKII Nguyễn Văn Hùng, Bệnh viện K Trung ương, cho biết: “Khi còn trẻ, cơ thể có nhiều khả năng sửa chữa, khắc phục những sai lầm hoặc đột biến đó”.

1.4 Thừa cân

phu nu nen biet 7 nguyen nhan gay ung thu buong trung e6a 7150884

Phụ nữ thừa cân dễ mắc ung thư buồng trứng.

Lời giải thích cho yếu tố nguy cơ này là do hormone. Tác dụng của mô mỡ là nó tạo ra estrogen, việc sản xuất quá nhiều estrogen, đặc biệt ở phụ nữ lớn t.uổi sau t.uổi mãn kinh, khiến họ có nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng và ung thư tử cung. Thêm vào đó, mô mỡ còn tạo ra một số phân tử có tác dụng phá hủy DNA và gene. Chúng được gọi là tác nhân oxy hóa. Đây là một yếu tố rủi ro nằm trong tầm kiểm soát vì tất nhiên có thể duy trì cân nặng khỏe mạnh thông qua việc ăn nhiều thực phẩm bổ dưỡng hơn và tập thể dục thường xuyên.

1.5 Dùng liệu pháp thay thế hormone estrogen

Sử dụng loại liệu pháp này sau khi mãn kinh có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, nguy cơ cao nhất đối với những người chỉ dùng estrogen (không có progesterone) trong ít nhất 5 hoặc 10 năm.

1.6 Rụng trứng nhiều

Phụ nữ càng rụng trứng nhiều thì nguy cơ mắc ung thư buồng trứng càng cao. Theo BS. Nguyễn Tuấn Anh, trong quá trình rụng trứng, biểu mô hoặc da, nang buồng trứng vỡ ra và giải phóng một quả trứng, sau đó vết vỡ sẽ tự lành lại giống như một vết rách. Quá trình chữa lành đó khiến các tế bào phải phân chia và tái tạo. Và tế bào buồng trứng càng phân chia nhiều thì càng có nhiều khả năng gặp phải các đột biến gene có thể tích tụ theo thời gian và gây ra ung thư buồng trứng. Mang thai, cho con bú và uống thuốc tránh thai đều ngăn ngừa sự rụng trứng, vì vậy chúng đều giúp buồng trứng được nghỉ ngơi.

1.7 Bị lạc nội mạc tử cung

Có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng tăng lên một chút nếu phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung, tình trạng nội mạc tử cung (mô) phát triển bên ngoài tử cung thay vì lót bên trong tử cung và có xu hướng gây ra đau bụng kinh.

2. Các yếu tố phòng ngừa và bảo vệ trước nguy cơ ung thư buồng trứng

phu nu nen biet 7 nguyen nhan gay ung thu buong trung 41d 7150884

Thuốc tránh thai có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư buồng trứng.

Hiện tại không có phương pháp nào để ngăn ngừa ung thư buồng trứng ngoài việc xác định và tránh bất kỳ yếu tố nguy cơ nào có thể thay đổi được.

Không phải lúc nào cũng có thể tránh được các yếu tố nguy cơ gây ung thư buồng trứng, chẳng hạn như t.iền sử gia đình. Nhưng nhận thức được những yếu tố này có thể giúp cảnh giác hơn về các triệu chứng để đi khám và phát hiện ung thư buồng trứng sớm hơn.

Vì béo phì là một yếu tố nguy cơ nên duy trì cân nặng vừa phải có thể là một cách để giảm nguy cơ. Có một chế độ ăn uống cân bằng, lành mạnh và tập thể dục thường xuyên là một phương pháp tốt để duy trì cân nặng vừa phải.

Yếu tố bảo vệ là bất cứ thứ gì làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng. Các yếu tố bảo vệ ung thư buồng trứng bao gồm:

Thuốc tránh thai đường uống: Dùng thuốc tránh thai đường uống có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn và nguy cơ này càng giảm khi người dùng thuốc này lâu hơn. Tuy nhiên, thuốc tránh thai có thể gây ra những nguy cơ sức khỏe khác, chẳng hạn như nguy cơ đông m.áu, đặc biệt ở những người hút thuốc.

Sinh con: Những người sinh con có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn so với những người không sinh con. Sinh con nhiều lần có nguy cơ thấp hơn so với sinh một lần.

Cho con bú: Những người cho con bú giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng, nguy cơ này tiếp tục giảm khi thời gian tiết sữa kéo dài hơn.

Thắt ống dẫn trứng hoặc cắt bỏ ống dẫn trứng: Đây là những thủ tục phẫu thuật để đóng hoặc cắt bỏ một hoặc cả hai ống dẫn trứng. Thực hiện một trong hai phẫu thuật có liên quan đến nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn.

Một số phụ nữ có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư buồng trứng có thể chọn phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng để giảm nguy cơ. Đây là một thủ thuật nhằm cắt bỏ ống dẫn trứng và buồng trứng.

Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ báo cáo rằng phụ nữ sau mãn kinh có đột biến gene BRCA có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng tới 85 – 90% và ung thư vú tới 50% bằng phương pháp cắt bỏ buồng trứng để giảm nguy cơ.

Uống một ly rượu có thực sự làm tăng nguy cơ ung thư vú?

Nhiều người tin rằng, uống một ly vang mỗi ngày có lợi cho sức khỏe, ít ai nghĩ rằng nó làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Theo nghiên cứu, tất cả các loại đồ uống có cồn đều làm tăng nguy cơ ung thư vú. Phụ nữ uống một ly mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư vú tăng từ 7 đến 10%. Ở mức hai đến ba ly mỗi ngày, nó tăng lên 20%. Thực tế, không có mức tiêu thụ rượu an toàn, càng uống ít thì nguy cơ càng thấp.

1. Uống rượu làm tăng nguy cơ ung thư

Một cuộc khảo sát gần đây do Viện Y tế Quốc gia tài trợ cho thấy hơn 50% người trưởng thành ở Hoa Kỳ không biết rằng uống rượu làm tăng nguy cơ ung thư, bao gồm cả ung thư vú. Và trong số những người biết về mối liên hệ giữa rượu và ung thư, có niềm tin hoặc nhận thức rằng nguy cơ thay đổi tùy theo loại rượu tiêu thụ, nhưng điều này không đúng.

Tiến sĩ Andrew Seidenberg, người đứng đầu nghiên cứu, công bố trên tạp chí Dịch tễ học ung thư, dấu ấn sinh học và phòng ngừa Hoa Kỳ khi ông còn là thành viên phòng chống ung thư tại Viện Ung thư Quốc gia, cho biết: “Tất cả các loại đồ uống có cồn, bao gồm cả rượu vang đều có thể làm tăng nguy cơ ung thư”.

uong mot ly ruou co thuc su lam tang nguy co ung thu vu 03b 7119286

Tất cả các loại đồ uống có cồn, bao gồm cả rượu vang đều có thể làm tăng nguy cơ ung thư.

Tiến sĩ Andrew Seidenberg hiện là giám đốc nghiên cứu của Truth Initiative, một tổ chức y tế công cộng phi lợi nhuận cho biết thêm uống rượu làm tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư, bao gồm cả ung thư vú.

Một phân tích tổng hợp được trích dẫn rộng rãi gồm 119 nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ (AICR) và Quỹ Nghiên cứu Ung thư Thế giới được công bố cách đây vài năm đã xác định rằng chỉ tiêu thụ một ly đồ uống có cồn mỗi ngày làm tăng nguy cơ ung thư vú lên 5% ở phụ nữ t.iền mãn kinh và 9% ở phụ nữ sau mãn kinh.

BS. Anne McTiernan, tác giả chính của báo cáo và chuyên gia phòng chống ung thư tại Fred giải thích: “Nguy cơ tăng 5% có thể dẫn đến sự thay đổi không đáng kể trong một năm đối với phụ nữ ở độ t.uổi ba mươi nhưng cao hơn khi ở độ t.uổi bốn mươi”.

Nhìn chung, mức tăng 9% có nghĩa là nếu một phụ nữ bắt đầu với nguy cơ mắc bệnh ung thư vú là 1/8 thông thường trong đời, thì việc uống một ly mỗi ngày trong thời gian dài có thể làm tăng nguy cơ đó lên gần 1/7 và đó là một sự gia tăng đáng kể.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, những phụ nữ uống một ly rượu mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư vú tăng từ 7 đến 10%. Với hai đến ba ly mỗi ngày, phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ ung thư vú tăng lên khoảng 20%.

2. Không có mức tiêu thụ rượu an toàn

uong mot ly ruou co thuc su lam tang nguy co ung thu vu b21 7119286

Lạm dụng rượu làm tăng nguy cơ ung thư.

Theo báo cáo năm 2023 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố trên tạp chí The Lancet Public Health, không có mức tiêu thụ rượu nào là an toàn. Để xác định mức độ an toàn cần phải có bằng chứng chứng minh rằng không có nguy cơ mắc bệnh ở mức nào đó hoặc dưới mức nhất định và không có bằng chứng nào như vậy.

Tiến sĩ Carina Ferreira-Borges, thuộc Văn phòng khu vực châu Âu của WHO từng cho biết: “Chúng ta không thể nói về cái gọi là mức độ an toàn khi sử dụng rượu – nguy cơ đối với sức khỏe của người uống bắt đầu từ giọt đầu tiên của bất kỳ loại đồ uống có cồn nào. Càng uống nhiều thì càng có hại – hay nói cách khác, bạn uống càng ít thì càng an toàn.”

Rượu đã được Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế xếp vào loại chất gây ung thư nhóm 1 có liên quan đến 7 loại ung thư. Ngoài ung thư vú ở phụ nữ, rượu còn làm tăng nguy cơ ung thư khoang miệng (miệng), hầu họng (họng), thực quản, gan, thanh quản và ung thư đại trực tràng.

Rượu có chứa ethanol, một chất gây ung thư được biết đến và nó có thể thúc đẩy ung thư theo nhiều cách. Ethanol có thể làm tăng nồng độ estrogen, từ đó làm tăng nguy cơ ung thư vú. Sự p.hân h.ủy ethanol trong cơ thể cũng có thể tạo ra lượng acetaldehyde cao, có thể làm hỏng DNA. Bởi vì tất cả các loại đồ uống có cồn đều chứa ethanol nên tất cả đều có nguy cơ.

Mặc dù một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa uống rượu nhẹ và vừa phải với sức khỏe tim mạch nhưng các chuyên gia cho biết vẫn chưa thể xác định liệu có lợi ích nào là do rượu hay do lựa chọn lối sống lành mạnh cho tim như chế độ ăn uống và tập thể dục lành mạnh hay không. Hơn nữa, nghiên cứu khác đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc tiêu thụ rượu và bệnh tim. Vì những lý do này và vì nguy cơ ung thư đã được xác định và khuyến nghị là không nên uống rượu.

3. Không uống rượu, kết hợp tập thể dục và ăn kiêng làm giảm nguy cơ ung thư vú

Trong khi nguy cơ ung thư vú tăng lên theo mỗi đơn vị rượu được tiêu thụ, thì việc tránh xa rượu sẽ giúp giảm nguy cơ. Trên thực tế, rượu là một trong những yếu tố nguy cơ hàng đầu có thể thay đổi được đối với bệnh ung thư vú. “Nhiều người, kể cả phụ nữ, không biết rằng ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất do rượu gây ra ở phụ nữ trên toàn cầu. Mọi người cần biết rằng bằng cách giảm tiêu thụ rượu, họ có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư”, Marilys Corbex, Tiến sĩ, cán bộ kỹ thuật cấp cao về các bệnh không lây nhiễm tại WHO- châu Âu, cho biết trong một thông cáo truyền thông của WHO.

uong mot ly ruou co thuc su lam tang nguy co ung thu vu 226 7119286

Không uống rượu, tăng cường rèn luyện sức khỏe và ăn uống lành mạnh là các yếu tố ngăn ngừa bệnh ung thư. Ảnh minh họa.

Tập thể dục và chế độ ăn uống lành mạnh cũng có thể hữu ích. Theo Tiến sĩ McTiernan, một báo cáo AICR năm 2017 lần đầu tiên tiết lộ rằng các bài tập mạnh như chạy hoặc đạp xe nhanh làm giảm nguy cơ mắc cả ung thư vú trước và sau mãn kinh. Bằng chứng rất rõ ràng: Có lối sống năng động, duy trì cân nặng khỏe mạnh trong suốt cuộc đời và hạn chế uống rượu – đây là tất cả những bước phụ nữ có thể thực hiện để giảm nguy cơ ung thư vú.

Một đ.ánh giá chung về các phân tích tổng hợp được công bố vào năm 2023 trên tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng cho thấy rằng tuân theo Chế độ ăn Địa Trung Hải có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú, đặc biệt là ở phụ nữ sau mãn kinh. Chế độ ăn Địa Trung Hải tập trung vào thực phẩm thực vật như rau và trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu và quả hạch, chất béo lành mạnh như dầu ô liu nguyên chất, chọn cá thay vì thịt đỏ. Lựa chọn thịt gia cầm thay vì thịt đỏ hoặc thịt chế biến sẵn cũng có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư vú.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, tốt nhất là không nên uống rượu. Những người chọn uống rượu nên hạn chế uống không quá hai ly mỗi ngày đối với nam và một ly mỗi ngày đối với nữ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *